Việt Nam, cũng như các nước gia nhập WTO sau 1995, ngoài việc cam kết tuân thủ các hiệp định chung của WTO thì còn phải chấp nhận thêm một số cam kết đặc thù (WTO+). Có thể phân loại các cam kết của Việt Nam theo 3 lĩnh vực là thuế quan, dịch vụ và thể chế.
Việt Nam cam kết cắt giảm mức thuế nhập khẩu tối đa có thể áp dụng đối với tất cả các hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (10.600 dòng thuế) từ mức bình quân 17,4% (năm 2006) xuống còn 13,4% thực hiện dần trong vòng 5 - 7 năm.
Cam kết cắt giảm 3.800 dòng thuế (giảm nhiều nhất là dệt may, cá và sản phẩm từ cá, gỗ và giấy, máy móc thiết bị điện tử, thịt và phụ phẩm), cam kết không tăng thêm 3.700 dòng thuế, cam kết áp dụng mức thuế trần đối với 3.170 dòng thuế (xăng dầu, kim loại, hóa chất, phương tiện vận tải).
Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia đầy đủ “thỏa thuận tự do hóa theo ngành” đối với sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may, thiết bị y tế và tham gia một phần đối với thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Việc tham gia các “hiệp định tự do hóa theo ngành” dẫn đến Việt Nam phải cắt giảm ở mức rất cao thuế suất nhập khẩu các sản phẩm liên quan (hầu hết là 0%).
Cam kết thuế suất của WTO là cam kết về thuế suất MFN áp dụng chung cho tất cả các nước thành viên WTO, đối với các nước có ký FTA với Việt Nam sẽ áp dụng theo FTA, thông thường là thấp hơn nhiều so với thuế suất cam kết gia nhập WTO áp dụng chung cho các quốc gia thành viên WTO (thuế suất MFN).
Cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu cho các loại phế liệu kim loại đen và kim loại mầu nhưng không phải ràng buộc toàn bộ biểu thuế xuất khẩu.
TP
Từ khóa: Cam kết, thuế quan, xuất khẩu, dịch vụ, thể chế