Công ty cho thuê sân khấu tổ chức sự kiện uy tín tại Hà Nội. Công ty cho thuê backdrop uy tín tại Hà Nội - nhiều mẫu mã đẹp. Dịch vụ chữa tắc tia sữa tại nhà, cam kết hiệu quả 100%. Công ty cung cấp, cho Thuê người đại diện cưới hỏi toàn quốc.

Menu
HẬU COVID-19Việt NamBốn kiến nghị quan trọng cho phục hồi kinh tế sau đại dịch

Bốn kiến nghị quan trọng cho phục hồi kinh tế sau đại dịch

14.09-07

Bên cạnh đẩy nhanh gói hỗ trợ lần 1, chuyên gia kiến nghị gói hỗ trợ kinh tế lần 2 cần có sự chọn lọc ngành nghề. Bên cạnh đó là các biện pháp bổ trợ lâu dài cho phát triển sau đại dịch.

TS Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa có báo cáo cập nhật về chính sách hỗ trợ của các nước trong bối cảnh khó khăn hiện nay cùng những kiến nghị đối với Việt Nam trong gói hỗ trợ kinh tế lần 2.

Báo cáo cho biết, do đại dịch COVID-19, kinh tế thế giới năm 2020 dự báo suy thoái sâu (tăng trưởng âm 4-6%) trước khi có thể phục hồi (tăng trưởng khoảng 3-3,5% năm 2021, theo dự báo của các tổ chức quốc tế).

Trong bối cảnh đó, Chính phủ và NHTW các nước tiếp tục nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh, đồng thời đưa ra nhiều chính sách, gói hỗ trợ chưa có tiền lệ để hỗ trợ hộ gia đình, doanh nghiệp và khôi phục nền kinh tế.

Tại Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã có 4 gói hỗ trợ (tổng giá trị thực – tức là tổng chi phí mà Chính phủ và hệ thống các TCTD cam kết bỏ ra ước tính khoảng 181,4 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 3% GDP năm 2019), bao gồm: Gói hỗ trợ tài khóa với giá trị ước tính 73,1 nghìn tỷ đồng (1,2% GDP); Gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng giá trị ước tính 36,6 nghìn tỷ đồng (0,6% GDP); Gói an sinh - xã hội: thực tế có giá trị khoảng 45,8 nghìn tỷ đồng (0,8% GDP), chứ không phải 62 nghìn tỷ đồng; Các gói hỗ trợ khác với tổng giá trị 26 nghìn tỷ đồng (0,43% GDP) bao gồm gói hỗ trợ giảm 10% giá điện của EVN và gói hỗ trợ giảm giá dịch vụ viễn thông. 

Đánh giá trong 4 gói hỗ trợ, thì gói tiền tệ - tín dụng và giảm tiền điện đạt kết quả khả quan, còn lại rất chậm và còn vướng mắc, cần sớm khắc phục. Vì vậy, nhóm đưa ra bốn kiến nghị đối với Việt Nam. Một là, Chính phủ cần tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ hiện tại, như đã được nhận diện trong thời gian qua.

Hai là, Chính phủ cũng cần sớm xây dựng một số chính sách, gói hỗ trợ lần 2, đảm bảo 4 nguyên tắc cơ bản gồm, nguyên tắc thứ nhất, qui mô đủ lớn và thời gian phù hợp (có thể từ quý 4/2020 đến hết năm 2021) mới có thể giúp người dân, doanh nghiệp vượt khó.

Theo tính toán sơ bộ, các chuyên gia của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận thấy các gói hỗ trợ giai đoạn 2 có thể tương đương các gói giai đoạn 1, khoảng 2,5% GDP. Như vậy tổng các gói hỗ trợ cả hai giai đoạn khoảng 5,5% GDP. 

Nguyên tắc thứ hai, cần đảm bảo độ bao phủ đến cả lao động không chính thức vì đây là đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đến cả doanh nghiệp nhỏ và lớn vì cả hai đều chịu tác động tiêu cực.

Nguyên tắc thứ ba, cần có chọn lọc, phân loại ngành nghề để hỗ trợ, trên cơ sở đánh giá, khảo sát nhanh tác động của dịch COVID-19 đến ngành, nghề cụ thể và có điều kiện, tiêu chí cụ thể. 

Nguyên tắc thứ tư, phải triển khai nhanh, gọn, đúng đối tượng, chuyển hỗ trợ bằng nhiều kênh khác nhau, trong đó, hết sức chú trọng ứng dụng CNTT như dịch vụ Mobile money, ví điện tử… mới đảm bảo chính sách nhân văn sớm đi vào cuộc sống. Đồng thời, cần đề xuất có cơ chế, phân quyền đặc thù cho Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ để có thể ra quyết định nhanh chóng, kịp thời.

Ba là về lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực để ưu tiên hỗ trợ. Qua đánh giá tác động của dịch COVID-19 đối với các ngành nghề trong 8 tháng đầu năm 2020, Nhóm chuyên gia nhận thấy những ngành nghề chịu tác động tiêu cực theo thứ tự giảm dần, đó là: du lịch; vận tải; dệt may, da giày; bán lẻ; giáo dục – đào tạo. 

Đồng quan điểm về việc cần có hỗ trợ chọn lọc cho các lĩnh vực ngành nghề cụ thể tại gói hỗ trợ lần 2, TS John Walsh, Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Kinh doanh Quốc tế, Đại học RMIT nhấn mạnh cần nhắm vào các lĩnh vực và ngành nghề cụ thể hứa hẹn khả năng phục hồi và phát triển nhanh chóng.

Theo đó, một số doanh nghiệp dựa vào xuất khẩu sẽ nằm trong danh mục này nhưng cần có sự tham vấn nhiều hơn với chính quyền địa phương, đại diện doanh nghiệp và người lao động để xác định nơi nào, trong các cộng đồng địa phương và khu vực, gói hỗ trợ sẽ phát huy hiệu quả tốt nhất. 

Việt Nam không phải là một quốc gia đồng nhất giữa các tỉnh thành, vì thế gói kích cầu mỗi nơi không nên giống nhau. Việc truyền thông hiệu quả sẽ rất quan trọng trong quá trình này để đảm bảo mọi người đều cảm thấy được quan tâm.

“Chính phủ cũng nên lưu ý các vấn đề công bằng trong việc hỗ trợ những người cần đến gói cứu trợ nhất. Điều này có thể thực hiện như một chiến lược song song và một trong những công việc của Chính phủ là nên giải thích cho người dân hiểu Chính phủ đang làm gì và tại sao”, TS John Walsh nhấn mạnh.

Đặc biệt, theo vị chuyên gia, cần có sự “rút kinh nghiệm” từ gói hỗ trợ lần 1 cho lần này. “Điều cần thiết là phải khuyến khích mọi người bắt đầu chi tiền trở lại, đặc biệt là vào lĩnh vực dịch vụ, vì đây là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất và có tỷ lệ thất nghiệp tồi tệ nhất”,  TS John Walsh đề xuất.

Trở lại với các kiến nghị của Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, bốn được đưa ra là, song song với ba giải pháp nói trên, Chính phủ cũng cần thực hiện đồng bộ 6 nhóm giải pháp khác mang tính bổ trợ và dài hạn khác.

Cụ thể, Nghiên cứu xây dựng gói hỗ trợ khẩn cấp (cho cả thiên tai và dịch bệnh với cơ chế đặc thù, đảm bảo nhanh, kịp thời, hiệu quả); Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thực chất hơn nữa nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; nhất là về thủ tục hành chính (kể cả đối với các gói hỗ trợ), tăng cường ứng dụng CNTT nhằm tăng tốc độ xử lý công việc; Ban hành chính sách và giải pháp cụ thể để thu hút dòng vốn FDI trong bối cảnh dịch chuyển chuỗi sản xuất (nhất là các giải pháp về thủ tục hành chính, hạ tầng KCN, nguồn nhân lực, và phân cấp ủy quyền trong tiếp cận, thu hút có chọn lọc các dự án FDI…).

Đồng thời, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020-2021 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn, với điều kiện không hình thức, không giải ngân bằng mọi giá mà vẫn đảm bảo yêu cầu chất lượng; Đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các thị trường còn nhiều dư địa ngay sau khi dịch bệnh được kiểm soát như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, Hoa Kỳ và EU, và tận dụng tốt hơn nữa các hiệp định CPTPP và EVFTA.

Đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ điện tử và thanh toán, giao dịch điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp.

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp

Từ khóa: bốn kiến nghị quan trọng, phục hồi kinh tế, sau đại dịch

Hậu Covid-19

Menu

Chuyên mục RCEP

Menu

Thư viện hội nhập

thu vien

Video

Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field

Liên kết

 

Lượt truy cập

007401066
Go to top