Công ty cho thuê sân khấu tổ chức sự kiện uy tín tại Hà Nội. Công ty cho thuê backdrop uy tín tại Hà Nội - nhiều mẫu mã đẹp. Dịch vụ chữa tắc tia sữa tại nhà, cam kết hiệu quả 100%. Công ty cung cấp, cho Thuê người đại diện cưới hỏi toàn quốc.

Menu

Ý nghĩa của RCEP đối với tương lai thương mại châu Á – Thái Bình Dương và các doanh nghiệp Hoa Kỳ hoạt động trong khu vực

download8

Sau tiến trình đàm phán 8 năm, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), hiệp định thương mại khu vực lớn nhất thế giới đã được ký kết trực tuyến vào ngày 15/11/2020. Mặc dù còn hạn chế so với Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP-12) do Hoa Kỳ dẫn đầu và hiệp định kế thừa của TPP-12 là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), RCEP là hiệp định thương mại tự do khu vực lớn, đặt ra những thách thức đối với Hoa Kỳ, quốc gia trước đó đã chọn không tham gia TPP-12 và CPTPP, và cũng không là thành viên của RCEP, và có thể dẫn đến việc thay thế một số mặt hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang khu vực này. 

Giới thiệu

Sau 8 năm đàm phán, Hiệp định RCEP, hiệp định thương mại khu vực lớn nhất thế giới đã được ký kết trực tuyến vào ngày 15/11/2020. Hiệp định đã đặt ra những thách thức đối với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) - bao gồm Úc, Brunei, Canada, Chi Lê, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Các thành viên của RCEP bao gồm 10 thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) (Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam và Singapore) cùng với Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Việc Hoa Kỳ rút khỏi TPP-12, và hiệp định CPTPP được ký kết vào ngày 08/3/2018 và Hiệp định RCEP kí vào tháng 11/2020 có nghĩa là Hoa Kỳ không phải là một phần của hai hiệp định thương mại tự do khu vực lớn ở châu Á – Thái Bình Dương.

Mặc dù nhiều nhà quan sát đánh giá thấp những lợi ích hữu hình của RCEP, hiệp định này được cho là sẽ tác động đáng kể đến thương mại của khu vực. Thoả thuận thương mại RCEP với mục tiêu là làm giảm thuế quan, mở rộng thương mại dịch vụ, hài hoà các quy tắc xuất xứ trong khu vực, thúc đẩy mở rộng thương mại nội khối và giúp các doanh nghiệp trong khu vực tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. RCEP sẽ bao phủ 30% dân số thế giới (2,2 tỉ người), với GDP là 38 nghìn tỉ USD, chiếm 1/3 GDP toàn cầu. Các nước thành viên đặt mục tiêu đưa thoả thuận đi vào hiệu lực từ ngày 1/1/2022, mặc dù một số nước mong muốn có hiệu lực sớm hơn. Việc ký kết hiệp định trong năm 2020 một phần là do Ấn Độ, quốc gia cản trở quá trình đàm phán nhiều nhất, đã chọn không tham gia hiệp định.

RCEP được kỳ vọng sẽ kích thích thương mại khu vực châu Á. Theo ước tính của Viện Brookings, RCEP sẽ bổ sung hàng năm 209 tỉ USD cho thu nhập của thế giới và 500 tỉ USD cho thương mại thế giới vào năm 2030. Dưới đây là tóm tắt một số lợi ích và hạn chế của RCEP, đặc biệt là so sánh với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

Cắt giảm thuế quan

RCEP sẽ xóa bỏ hơn 90% dòng thuế nhập khẩu trong vòng 20 năm kể từ khi có hiệu lực. Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế quan của RCEP có phạm vi hạn chế hơn so với CPTPP và TPP-12. Mức độ và lộ trình cắt giảm thuế quan của từng mặt hàng còn tùy thuộc vào biểu thuế quan của từng nước. Nhưng tính tổng cộng, RCEP bao phủ khoảng khoảng 90% dòng thuế, trong khi CPTPP bao phủ khoảng 99% dòng thuế. RCEP cũng loại trừ nhiều sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm và một số mặt hàng có lộ trình giảm thuế lên đến 20 năm. Một số thành viên (ví dụ: Úc, Brunei, Campuchia, Malaysia, Myanmar, New Zealand, Singapore và Thái Lan) áp dụng một biểu thuế chung cho tất cả các thành viên RCEP khác, tuy nhiên các thành viên còn lại quyết định loại bỏ dần thuế quan của họ với các mức độ khác nhau cho từng thành viên RCEP. Cách tiếp cận khác biệt này có nghĩa là thuế nhập khẩu của một loại hàng hòa khi đi vào một thị trường RCEP có thể khác nhau tùy thuộc vào việc hàng hóa đó đến từ Thành viên RCEP nào - ít nhất là cho đến khi thuế quan được xóa bỏ hoàn toàn.

Thực thi RCEP sẽ có những thay đổi quan trọng. 86% hàng hóa công nghiệp xuất khẩu từ Nhật Bản sang Trung Quốc có khả năng được xóa bỏ thuế quan, với gần 90% phụ tùng ô tô xuất khẩu sang Trung Quốc được miễn thuế. Nhật Bản sẽ giữ mức thuế đối với các sản phẩm nông nghiệp như gạo và lúa mì nhưng sẽ bãi bỏ thuế đối với 56% nông sản nhập khẩu từ Trung Quốc và 61% nông sản nhập khẩu từ ASEAN. Mặc dù nhiều sản phẩm công nghệ đã được miễn thuế theo Hiệp định Công nghệ Thông tin của Tổ chức Thương mại Thế giới (ITA I và ITA II), RCEP cũng bao phủ một số quốc gia không ký kết ITA như: Brunei, Campuchia, Lào, Malaysia và Myanmar.

Hơn nữa, hiệp định này là lần đầu tiên Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cùng nhau tham gia một hiệp định thương mại tự do. Các quốc gia này lần lượt đại diện cho các nền kinh tế lớn nhất, lớn thứ hai và thứ tư trong khu vực. Trong một tuyên bố chung, các thành viên RCEP cho biết thỏa thuận “sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng khả năng phục hồi của các nước thông qua một quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch một cách toàn diện và bền vững”.

Thương mại dịch vụ và thương mại điện tử

RCEP dự kiến sẽ thúc đẩy thương mại dịch vụ trong nội khối bao gồm các cam kết cho phép doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới như giáo dục, kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ văn phòng. Các cam kết về thương mại dịch vụ trong RCEP là sự kết hợp của “dạnh sách chọn cho” – chỉ được kinh doanh một số ngành dịch vụ nhất định (Campuchia, Trung Quốc, Lào, Myanmar, New Zealand, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) và “danh sách chọn bỏ ” – được đầu tư vào tất cả các ngành dịch vụ trừ một số ngành bị cấm hoặc hạn chế tiếp cận (Úc, Brunei, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Singapore). Cách tiếp cận hỗn hợp này và mức độ bao phủ không đầy đủ khiến cho việc đánh giá mức độ tác động của RCEP lên thương mại dịch vụ là khá khó khăn.

Các điều khoản về dữ liệu của RCEP bị hạn chế hơn so với các thoả thuận khác. Mặc dù RCEP ngăn cấm các thành viên bản địa hoá dữ liệu như là một điều kiện để hoạt động kinh doanh, nhưng cũng không yêu cầu các điều khoản rộng hơn để đảm bảo quyền tự do lưu chuyển dữ liệu xuyên biên giới hoặc cấm các yêu cầu bản địa hoá, không như CPTPP, Hiệp định Hoa Kỳ - Mexico – Canada (USMCA) và Hiệp định Kỹ thuật số Hoa Kỳ - Nhật Bản.

RCEP mở rộng các quy tắc thương mại điện tử hiện có trong Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Úc – New Zealand (AANZFTA) và sẽ cập nhật các quy định thương mại điện tử cho một số thành viên RCEP. RCEP cũng chứa các quy tắc cụ thể hơn, chẳng hạn như hạn chế thư rác điện tử.

Quy tắc xuất xứ

Một trong những lợi ích quan trọng nhất của RCEP là quy tắc xuất xứ mới được chuẩn hoá. Sau khi thực hiện đầy đủ, các sản phẩm được sản xuất theo tiêu chí RCEP có thể được vận chuyển đến tất cả các nước thành viên bằng một chứng từ xuất xứ duy nhất. Quy tắc xuất xứ hài hoà này có nghĩa là các công ty không cần phải xác nhận và điều chỉnh các yêu cầu thông tin và tiêu chuẩn hàm lượng cụ thể cho mỗi nước. RCEP có yêu cầu hàm lượng giá trị khu vực tương đối thấp là 40%, có nghĩa là chỉ cần 40% sản phẩm được sản xuất trong khu vực RCEP là đủ các điều kiện miễn thuế trong hầu hết các trường hợp. Và RCEP cũng cho phép chuyển đổi mã HS ở cấp bốn chữ số để đáp ứng các tiêu chí ban đầu của RCEP.

Ngược lại, Hiệp định USMCA yêu cầu hàm lượng giá trị khu vực phải ở mức 60% và hàm lượng giá trị khu vực phải ở mức cao 70 – 75% đối với xe có động cơ và các phụ tùng quan trọng. Quy tắc xuât xứ hài hoà của RCEP, hàm lượng giá trị khu vực thấp hơn và quyền tiếp cận miễn thuế được thiết kế để thúc đẩy thương mại nội khối được mở rộng và linh hoạt. Thông thường, chi phí liên quan đến chứng nhận xuất xứ có thể dao động từ 1,4 – 5,9% trong số tiền giao dịch xuất khẩu, vì vậy, các quy tắc xuất xứ nới lỏng có thể giúp thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu trung bình tăng thêm đến 90 tỉ USD mỗi năm.

Sở hữu trí tuệ (IP)

RCEP bao gồm các điều khoản riêng biệt để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên diện rộng, bao gồm bảo vệ bản quyền cho tác giả, người biểu diễn, nhạc sĩ; bằng sáng chế, các điều khoản bảo vệ đài truyền hình, chương trình phát sóng, quản lý quyền điện tử, nhãn hiệu, kiến thức truyền thông và văn hoa dân gian. RCEP cũng có các điều khoản thúc đẩy tính minh bạch và quy trình thích hợp để xác định, bảo vệ và sử dụng chỉ dẫn địa lý (GI) cho tất cả các thành viên.

Theo RCEP, các nước thành viên cam kết phê chuẩn 7 điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. Bởi vì các điều ước này áp dụng rộng rãi cho tất cả các bên ký kết, và việc thực thi không là như nhau bất kể là thành viên RCEP hay không, nên việc phê chuẩn các điều ước này sẽ nâng cao và hài hoà các tiêu chuẩn về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong khu vực và mang lại lợi ích rộng rãi cho các bên không thuộc thành viên RCEP, chẳng hạn như Hoa Kỳ và châu Âu. RCEP yêu cầu đối xử quốc gia đối với tất cả các thành viên tham gia RCEP, tuân thủ các ngoại lệ trong Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (của WTO).

Tạo thuận lợi cho thương mại

RCEP hứa hẹn đưa ra bộ quy tắc và thủ tục duy nhất về việc tiếp cận ưu đãi thuế quan ở bất kỳ quốc gia thành viên nào; cải thiện cơ chế để giải quyết các rào cản phi thuế quan, bao gồm thủ tục hải quan, kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật; và đưa ra bộ quy tắc chung về sở hữu trí tuệ, thương mại và thương mại điện tử.

Bên cạnh đó còn có các điều khoản nhằm thúc đẩy số hoá các tài liệu thương mại và sử dụng chữ ký điện tử xác thực điện tử để tạo thuận lợi cho thương mại xuyên biên giới. Các thành viên sẽ được hưởng lợi từ thủ tục hải quan đã được đơn giản hoá và tăng cường các điều khoản tạo thuận lợi thương mại, cho phép vận chuyển nhanh chóng các mặt hàng khẩn cấp và hàng hoá dễ hư hỏng. Điều này cũng sẽ làm giảm cơ hội quan liêu và tham nhũng ở một số thị trường nếu được thực thi đầy đủ.

Ảnh hưởng đến thương mại của Hoa Kỳ trong khu vực

Hoa Kỳ đã đứng bên lề trong khu vực thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương sau khi Tổng thống Trump rút khỏi TPP ngay khi vừa nhậm chức vào tháng 1/2017. Một kết quả quan trọng của RCEP là đưa nhiều nền kinh tế quan trọng của châu Á lại với nhau vào trong khuôn khổ khu vực bao gồm Trung Quốc mà không bao gồm Hoa Kỳ. Quá trình hội nhập khu vực của RCEP diễn ra vào thời điểm Tổng thống Biden muốn hỗ trợ ngành sản xuất trong nước của Hoa Kỳ, nhưng muốn tạm dừng các thoả thuận thương mại mới trong thời gian không xác định.

Các công ty trong RCEP có thể sản xuất và bán hàng hoá miễn thuế trên toàn khu vực với chỉ cần một giấy chứng nhận xuất xứ duy nhất sau khi cắt giảm thuế quan hoàn toàn, điều này sẽ khuyến khích khả năng các công ty tìm nguồn hàng từ các nhà cung cấp RCEP khác và giảm chi phí chung của hàng hoá trong RCEP. Do đó có thể thay thế xuất khẩu của Hoa Kỳ và khiến các công ty Hoa Kỳ khó cạnh tranh hơn so với các công ty trong RCEP và hàng nhập khẩu. Và cũng gây áp lực lên các công ty Hoa Kỳ trong việc đặt các cơ sở sản xuất trong RCEP để đảm bảo quyền tiếp cận ưu đãi vào các thị trường RCEP hoặc tận dụng các yêu cầu về hàm lượng giá trị khu vực thấp của RCEP và quyền tiếp cận ưu đãi thông qua việc lắp ráp hàng hoá trong RCEP với yêu cầu tập hợp các bộ phận và linh kiện từ nhiều nhà cung cấp RCEP, điển hình như từ Trung Quốc.

Trong khi RCEP bị hạn chế hơn TPP-12 hoặc CPTPP, thì hiệp định này có khả năng làm giảm thị phần của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là tại các thị trường RCEP nơi hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ không được hưởng lợi từ việc tiếp cận ưu đãi theo các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện có của Hoa Kỳ (như là FTA Hoa Kỳ - Hàn Quốc, FTA US – Úc, hoặc FTA Hoa Kỳ - Singapore, và thỏa thuận "thu hoạch sớm" của chính quyền Trump). Đây có thể là một mối quan tâm đặc biệt đối với nông dân Hoa Kỳ, vì các sản phẩm nông nghiệp có xu hướng bị áp thuế cao hơn ở nhiều thị trường. Tuy nhiên, giai đoạn loại bỏ thuế quan nông nghiệp trong CPTPP và RCEP có xu hướng dài hơn so với các sản phẩm công nghiệp và còn có một số các mặt hàng hoàn toàn không được cắt giảm thuế quan, vì vậy Hoa Kỳ có thể có thời gian để giải quyết các vấn đề này.

RCEP có khả năng sẽ gây áp lực lên chính quyền Biden để tiếp nối đối với việc bỏ dở “trục xoay sang châu Á” của Tổng thống Obama và thúc đẩy Hoa Kỳ tham gia CPTPP hoặc khôi phục TPP-12. Cho đến nay, Tổng thống Biden vẫn chưa hứa hẹn về việc tham gia CPTPP hoặc TPP-12, và đây không phải là ưu tiên chính trong năm đầu tiên ông cầm quyền khi trọng tâm sẽ là xây dựng lại nền kinh tế Mỹ. Hơn nữa, sẽ yêu cầu đàm phán lại một số điều khoản của CPTPP đồng thời xin Quốc hội gia hạn thời gian áp dụng quy trình “thẩm quyền xúc tiến thương mại” vốn sẽ chấm dứt vào thời điểm 1/7/2021 – thủ tục cần thiết cho bất kỳ quá trình đàm phán hiệp định thương mại lớn nào.

Các hạn chế của RCEP

Có một số khiếm khuyết đáng chú ý trong RCEP dẫn đến hạn chế lợi ích về mặt kinh tế lâu dài. Nhiều sản phẩm nông nghiệp và hàng hoá nhạy cảm về chính trị được loại trừ hoàn toàn khỏi việc cắt giảm thuế quan. Mức cắt giảm thuế quan là khoảng 90% hàng hoá, thấp hơn so với các hiệp định thương mại tự do “tiêu chuẩn vàng” như CPTPP, nơi có đến 99% hàng hoá sẽ được miễn thuế khi hiệp định được thực thi đầy đủ.

RCEP cũng không giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (SOEs), mà chính quyền Obama đã thêm vào TPP-12 với mục đích đưa ra cho Trung Quốc một loạt các cải cách SOE nếu quyết định tham gia TPP. RCEP cũng không cố gắng giải quyết các vấn đề về quyền lao động và môi trường, vốn là một phần quan trọng trong các hiệp định CPTPP, USMCA và TPP-12.

Các điều khoản về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước (ISDS) dường như đã bị loại bỏ theo yêu cầu của New Zealand, chính quyền hiện tại của quốc gia này kiên quyết phản đối ISDS. Thay vào đó, khi hiệp định có hiệu lực, các quốc gia thành viên sẽ đánh giá lại vấn đề ISDS trong vòng 2 năm. Những cam kết mà cần xem xét lại các vấn đề gây tranh cãi thường là những cam kết mà hiếm khi dẫn đến tiến bộ trong tương lai. Không như CPTPP và USMCA, hiệp định RCEP không bao gồm các điều khoản về quyền lao động hoặc tiêu chuẩn môi trường.

Cuối cùng, hiệp định không bao gồm Ấn Độ, quốc gia đã phá vỡ các cuộc thảo luận do lo ngại đến các ngành công nghiệp trong nước có thể bị ảnh hưởng bất lợi từ hàng hoá sản xuất giá rẻ hơn từ Trung Quốc; sữa và các sản phẩm từ sữa từ New Zealand và Úc. Dẫn đến Ấn Độ sẽ khởi động lại các cuộc đàm phán với các thành viên RCEP trong tương lai, nhưng với những căng thẳng gần đây với Trung Quốc và sự nhạy cảm chính trị lâu đời của Ấn Độ về việc giảm thuế công nghiệp và nông nghiệp, thì khó đạt được các thoả thuận trong thời gian gần và trung hạn.

Phần kết luận

Bất chấp những hạn chế của RCEP, hiệp định nay sẽ là một động lực quan trọng trong thương mại của khu vực với lần đầu tiên kết hợp Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc lại với nhau trong một FTA khu vực. Hơn nữa, hiện nay đã có hai hiệp định thương mại lớn ở châu Á mang trọng lượng chính trị và biểu tượng của hợp tác thương mại khu vực mà không thể bỏ qua, đặc biệt là vì Hoa Kỳ không là thành viên của chúng.

Mặc dù hiệp định RCEP còn hạn chế hơn nhiều so với CPTPP hoặc TPP-12, nhưng nó gây áp lực lên Hoa Kỳ trong việc tái gia nhập châu Á - Thái Bình Dương hoặc có nguy cơ bị lấn át bởi sự hiện diện khu vực ngày càng mở rộng của Trung Quốc. Điều này được thấy rõ thông qua tuyên bố gần đây của Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình tại Hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo trong Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) rằng Trung Quốc sẽ “xem xét một cách thuận lợi” việc tham gia CPTPP. Với việc Trung Quốc và Hàn Quốc đưa ra ý định cũng muốn tham gia CPTPP, Hoa Kỳ có thể cần phải nhanh chóng di chuyển để tránh tụt hậu xa hơn trong việc định hình các quy tắc thương mại châu Á tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Ở cấp độ thương mại thuần túy, mặc dù phạm vi áp dụng còn hạn chế, ưu đãi thuế quan và quy tắc xuất xứ của RCEP sẽ ưu đãi hàng hóa và dịch vụ từ các thành viên RCEP, khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn hàng trong khu vực và kết hợp RCEP và CPTPP có khả năng thay thế ít nhất một số đối thủ cạnh tranh về hàng hóa dịch vụ và xuất khẩu nông sản của Mỹ. Đồng thời, RCEP có khả năng tăng cường khả năng cạnh tranh của khu vực bằng cách giảm chi phí thuế và tạo thuận lợi thương mại cho hàng hóa với thành phần và linh kiện có nguồn gốc trong khu vực, ví dụ như từ Trung Quốc hoặc cho phép các công ty RCEP tránh thuế theo Mục 301 của Hoa Kỳ. “”Tác động từ hiệp định này sẽ được đánh giá một cách kỹ lưỡng theo từng thời kỳ trong bối cảnh việc cắt giảm thuế được tiến hành trên cơ sở khung thời gian nhất định, đồng thời cùng với thời gian mục đích thực sự của Trung Quốc và Ấn Độ liên quan đến RCEP và CPTPP cũng sẽ trở nên rõ ràng hơn trong những năm tới.

Nguồn: Jdsupra

Từ khóa: thương mại thuần túy, quy tắc xuất xứ, ưu đãi thuế quan

Ý nghĩa của RCEP đối với tương lai thương mại châu Á – Thái Bình Dương và các doanh nghiệp Hoa Kỳ hoạt động trong khu vực

Sau tiến trình đàm phán 8 năm, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), hiệp định thương mại khu vực lớn nhất thế giới đã được ký kết trực tuyến vào ngày 15/11/2020. Mặc dù còn hạn chế so với Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP-12) do Hoa Kỳ dẫn đầu và hiệp định kế thừa của TPP-12 là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), RCEP là hiệp định thương mại tự do khu vực lớn, đặt ra những thách thức đối với Hoa Kỳ, quốc gia trước đó đã chọn không tham gia TPP-12 và CPTPP, và cũng không là thành viên của RCEP, và có thể dẫn đến việc thay thế một số mặt hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang khu vực này. 

Giới thiệu

Sau 8 năm đàm phán, Hiệp định RCEP, hiệp định thương mại khu vực lớn nhất thế giới đã được ký kết trực tuyến vào ngày 15/11/2020. Hiệp định đã đặt ra những thách thức đối với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) - bao gồm Úc, Brunei, Canada, Chi Lê, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Các thành viên của RCEP bao gồm 10 thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) (Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam và Singapore) cùng với Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Việc Hoa Kỳ rút khỏi TPP-12, và hiệp định CPTPP được ký kết vào ngày 08/3/2018 và Hiệp định RCEP kí vào tháng 11/2020 có nghĩa là Hoa Kỳ không phải là một phần của hai hiệp định thương mại tự do khu vực lớn ở châu Á – Thái Bình Dương.

Mặc dù nhiều nhà quan sát đánh giá thấp những lợi ích hữu hình của RCEP, hiệp định này được cho là sẽ tác động đáng kể đến thương mại của khu vực. Thoả thuận thương mại RCEP với mục tiêu là làm giảm thuế quan, mở rộng thương mại dịch vụ, hài hoà các quy tắc xuất xứ trong khu vực, thúc đẩy mở rộng thương mại nội khối và giúp các doanh nghiệp trong khu vực tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. RCEP sẽ bao phủ 30% dân số thế giới (2,2 tỉ người), với GDP là 38 nghìn tỉ USD, chiếm 1/3 GDP toàn cầu. Các nước thành viên đặt mục tiêu đưa thoả thuận đi vào hiệu lực từ ngày 1/1/2022, mặc dù một số nước mong muốn có hiệu lực sớm hơn. Việc ký kết hiệp định trong năm 2020 một phần là do Ấn Độ, quốc gia cản trở quá trình đàm phán nhiều nhất, đã chọn không tham gia hiệp định.

RCEP được kỳ vọng sẽ kích thích thương mại khu vực châu Á. Theo ước tính của Viện Brookings, RCEP sẽ bổ sung hàng năm 209 tỉ USD cho thu nhập của thế giới và 500 tỉ USD cho thương mại thế giới vào năm 2030. Dưới đây là tóm tắt một số lợi ích và hạn chế của RCEP, đặc biệt là so sánh với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

Cắt giảm thuế quan

RCEP sẽ xóa bỏ hơn 90% dòng thuế nhập khẩu trong vòng 20 năm kể từ khi có hiệu lực. Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế quan của RCEP có phạm vi hạn chế hơn so với CPTPP và TPP-12. Mức độ và lộ trình cắt giảm thuế quan của từng mặt hàng còn tùy thuộc vào biểu thuế quan của từng nước. Nhưng tính tổng cộng, RCEP bao phủ khoảng khoảng 90% dòng thuế, trong khi CPTPP bao phủ khoảng 99% dòng thuế. RCEP cũng loại trừ nhiều sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm và một số mặt hàng có lộ trình giảm thuế lên đến 20 năm. Một số thành viên (ví dụ: Úc, Brunei, Campuchia, Malaysia, Myanmar, New Zealand, Singapore và Thái Lan) áp dụng một biểu thuế chung cho tất cả các thành viên RCEP khác, tuy nhiên các thành viên còn lại quyết định loại bỏ dần thuế quan của họ với các mức độ khác nhau cho từng thành viên RCEP. Cách tiếp cận khác biệt này có nghĩa là thuế nhập khẩu của một loại hàng hòa khi đi vào một thị trường RCEP có thể khác nhau tùy thuộc vào việc hàng hóa đó đến từ Thành viên RCEP nào - ít nhất là cho đến khi thuế quan được xóa bỏ hoàn toàn.

Thực thi RCEP sẽ có những thay đổi quan trọng. 86% hàng hóa công nghiệp xuất khẩu từ Nhật Bản sang Trung Quốc có khả năng được xóa bỏ thuế quan, với gần 90% phụ tùng ô tô xuất khẩu sang Trung Quốc được miễn thuế. Nhật Bản sẽ giữ mức thuế đối với các sản phẩm nông nghiệp như gạo và lúa mì nhưng sẽ bãi bỏ thuế đối với 56% nông sản nhập khẩu từ Trung Quốc và 61% nông sản nhập khẩu từ ASEAN. Mặc dù nhiều sản phẩm công nghệ đã được miễn thuế theo Hiệp định Công nghệ Thông tin của Tổ chức Thương mại Thế giới (ITA I và ITA II), RCEP cũng bao phủ một số quốc gia không ký kết ITA như: Brunei, Campuchia, Lào, Malaysia và Myanmar.

Hơn nữa, hiệp định này là lần đầu tiên Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cùng nhau tham gia một hiệp định thương mại tự do. Các quốc gia này lần lượt đại diện cho các nền kinh tế lớn nhất, lớn thứ hai và thứ tư trong khu vực. Trong một tuyên bố chung, các thành viên RCEP cho biết thỏa thuận “sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng khả năng phục hồi của các nước thông qua một quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch một cách toàn diện và bền vững”.

Thương mại dịch vụ và thương mại điện tử

RCEP dự kiến sẽ thúc đẩy thương mại dịch vụ trong nội khối bao gồm các cam kết cho phép doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới như giáo dục, kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ văn phòng. Các cam kết về thương mại dịch vụ trong RCEP là sự kết hợp của “dạnh sách chọn cho” – chỉ được kinh doanh một số ngành dịch vụ nhất định (Campuchia, Trung Quốc, Lào, Myanmar, New Zealand, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) và “danh sách chọn bỏ ” – được đầu tư vào tất cả các ngành dịch vụ trừ một số ngành bị cấm hoặc hạn chế tiếp cận (Úc, Brunei, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Singapore). Cách tiếp cận hỗn hợp này và mức độ bao phủ không đầy đủ khiến cho việc đánh giá mức độ tác động của RCEP lên thương mại dịch vụ là khá khó khăn.

Các điều khoản về dữ liệu của RCEP bị hạn chế hơn so với các thoả thuận khác. Mặc dù RCEP ngăn cấm các thành viên bản địa hoá dữ liệu như là một điều kiện để hoạt động kinh doanh, nhưng cũng không yêu cầu các điều khoản rộng hơn để đảm bảo quyền tự do lưu chuyển dữ liệu xuyên biên giới hoặc cấm các yêu cầu bản địa hoá, không như CPTPP, Hiệp định Hoa Kỳ - Mexico – Canada (USMCA) và Hiệp định Kỹ thuật số Hoa Kỳ - Nhật Bản.

RCEP mở rộng các quy tắc thương mại điện tử hiện có trong Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Úc – New Zealand (AANZFTA) và sẽ cập nhật các quy định thương mại điện tử cho một số thành viên RCEP. RCEP cũng chứa các quy tắc cụ thể hơn, chẳng hạn như hạn chế thư rác điện tử.

Quy tắc xuất xứ

Một trong những lợi ích quan trọng nhất của RCEP là quy tắc xuất xứ mới được chuẩn hoá. Sau khi thực hiện đầy đủ, các sản phẩm được sản xuất theo tiêu chí RCEP có thể được vận chuyển đến tất cả các nước thành viên bằng một chứng từ xuất xứ duy nhất. Quy tắc xuất xứ hài hoà này có nghĩa là các công ty không cần phải xác nhận và điều chỉnh các yêu cầu thông tin và tiêu chuẩn hàm lượng cụ thể cho mỗi nước. RCEP có yêu cầu hàm lượng giá trị khu vực tương đối thấp là 40%, có nghĩa là chỉ cần 40% sản phẩm được sản xuất trong khu vực RCEP là đủ các điều kiện miễn thuế trong hầu hết các trường hợp. Và RCEP cũng cho phép chuyển đổi mã HS ở cấp bốn chữ số để đáp ứng các tiêu chí ban đầu của RCEP.

Ngược lại, Hiệp định USMCA yêu cầu hàm lượng giá trị khu vực phải ở mức 60% và hàm lượng giá trị khu vực phải ở mức cao 70 – 75% đối với xe có động cơ và các phụ tùng quan trọng. Quy tắc xuât xứ hài hoà của RCEP, hàm lượng giá trị khu vực thấp hơn và quyền tiếp cận miễn thuế được thiết kế để thúc đẩy thương mại nội khối được mở rộng và linh hoạt. Thông thường, chi phí liên quan đến chứng nhận xuất xứ có thể dao động từ 1,4 – 5,9% trong số tiền giao dịch xuất khẩu, vì vậy, các quy tắc xuất xứ nới lỏng có thể giúp thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu trung bình tăng thêm đến 90 tỉ USD mỗi năm.

Sở hữu trí tuệ (IP)

RCEP bao gồm các điều khoản riêng biệt để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên diện rộng, bao gồm bảo vệ bản quyền cho tác giả, người biểu diễn, nhạc sĩ; bằng sáng chế, các điều khoản bảo vệ đài truyền hình, chương trình phát sóng, quản lý quyền điện tử, nhãn hiệu, kiến thức truyền thông và văn hoa dân gian. RCEP cũng có các điều khoản thúc đẩy tính minh bạch và quy trình thích hợp để xác định, bảo vệ và sử dụng chỉ dẫn địa lý (GI) cho tất cả các thành viên.

Theo RCEP, các nước thành viên cam kết phê chuẩn 7 điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. Bởi vì các điều ước này áp dụng rộng rãi cho tất cả các bên ký kết, và việc thực thi không là như nhau bất kể là thành viên RCEP hay không, nên việc phê chuẩn các điều ước này sẽ nâng cao và hài hoà các tiêu chuẩn về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong khu vực và mang lại lợi ích rộng rãi cho các bên không thuộc thành viên RCEP, chẳng hạn như Hoa Kỳ và châu Âu. RCEP yêu cầu đối xử quốc gia đối với tất cả các thành viên tham gia RCEP, tuân thủ các ngoại lệ trong Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (của WTO).

Tạo thuận lợi cho thương mại

RCEP hứa hẹn đưa ra bộ quy tắc và thủ tục duy nhất về việc tiếp cận ưu đãi thuế quan ở bất kỳ quốc gia thành viên nào; cải thiện cơ chế để giải quyết các rào cản phi thuế quan, bao gồm thủ tục hải quan, kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật; và đưa ra bộ quy tắc chung về sở hữu trí tuệ, thương mại và thương mại điện tử.

Bên cạnh đó còn có các điều khoản nhằm thúc đẩy số hoá các tài liệu thương mại và sử dụng chữ ký điện tử xác thực điện tử để tạo thuận lợi cho thương mại xuyên biên giới. Các thành viên sẽ được hưởng lợi từ thủ tục hải quan đã được đơn giản hoá và tăng cường các điều khoản tạo thuận lợi thương mại, cho phép vận chuyển nhanh chóng các mặt hàng khẩn cấp và hàng hoá dễ hư hỏng. Điều này cũng sẽ làm giảm cơ hội quan liêu và tham nhũng ở một số thị trường nếu được thực thi đầy đủ.

Ảnh hưởng đến thương mại của Hoa Kỳ trong khu vực

Hoa Kỳ đã đứng bên lề trong khu vực thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương sau khi Tổng thống Trump rút khỏi TPP ngay khi vừa nhậm chức vào tháng 1/2017. Một kết quả quan trọng của RCEP là đưa nhiều nền kinh tế quan trọng của châu Á lại với nhau vào trong khuôn khổ khu vực bao gồm Trung Quốc mà không bao gồm Hoa Kỳ. Quá trình hội nhập khu vực của RCEP diễn ra vào thời điểm Tổng thống Biden muốn hỗ trợ ngành sản xuất trong nước của Hoa Kỳ, nhưng muốn tạm dừng các thoả thuận thương mại mới trong thời gian không xác định.

Các công ty trong RCEP có thể sản xuất và bán hàng hoá miễn thuế trên toàn khu vực với chỉ cần một giấy chứng nhận xuất xứ duy nhất sau khi cắt giảm thuế quan hoàn toàn, điều này sẽ khuyến khích khả năng các công ty tìm nguồn hàng từ các nhà cung cấp RCEP khác và giảm chi phí chung của hàng hoá trong RCEP. Do đó có thể thay thế xuất khẩu của Hoa Kỳ và khiến các công ty Hoa Kỳ khó cạnh tranh hơn so với các công ty trong RCEP và hàng nhập khẩu. Và cũng gây áp lực lên các công ty Hoa Kỳ trong việc đặt các cơ sở sản xuất trong RCEP để đảm bảo quyền tiếp cận ưu đãi vào các thị trường RCEP hoặc tận dụng các yêu cầu về hàm lượng giá trị khu vực thấp của RCEP và quyền tiếp cận ưu đãi thông qua việc lắp ráp hàng hoá trong RCEP với yêu cầu tập hợp các bộ phận và linh kiện từ nhiều nhà cung cấp RCEP, điển hình như từ Trung Quốc.

Trong khi RCEP bị hạn chế hơn TPP-12 hoặc CPTPP, thì hiệp định này có khả năng làm giảm thị phần của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là tại các thị trường RCEP nơi hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ không được hưởng lợi từ việc tiếp cận ưu đãi theo các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện có của Hoa Kỳ (như là FTA Hoa Kỳ - Hàn Quốc, FTA US – Úc, hoặc FTA Hoa Kỳ - Singapore, và thỏa thuận "thu hoạch sớm" của chính quyền Trump). Đây có thể là một mối quan tâm đặc biệt đối với nông dân Hoa Kỳ, vì các sản phẩm nông nghiệp có xu hướng bị áp thuế cao hơn ở nhiều thị trường. Tuy nhiên, giai đoạn loại bỏ thuế quan nông nghiệp trong CPTPP và RCEP có xu hướng dài hơn so với các sản phẩm công nghiệp và còn có một số

các mặt hàng hoàn toàn không được cắt giảm thuế quan, vì vậy Hoa Kỳ có thể có thời gian để giải quyết các vấn đề này.

RCEP có khả năng sẽ gây áp lực lên chính quyền Biden để tiếp nối đối với việc bỏ dở “trục xoay sang châu Á” của Tổng thống Obama và thúc đẩy Hoa Kỳ tham gia CPTPP hoặc khôi phục TPP-12. Cho đến nay, Tổng thống Biden vẫn chưa hứa hẹn về việc tham gia CPTPP hoặc TPP-12, và đây không phải là ưu tiên chính trong năm đầu tiên ông cầm quyền khi trọng tâm sẽ là xây dựng lại nền kinh tế Mỹ. Hơn nữa, sẽ yêu cầu đàm phán lại một số điều khoản của CPTPP đồng thời xin Quốc hội gia hạn thời gian áp dụng quy trình “thẩm quyền xúc tiến thương mại” vốn sẽ chấm dứt vào thời điểm 1/7/2021 – thủ tục cần thiết cho bất kỳ quá trình đàm phán hiệp định thương mại lớn nào.

Các hạn chế của RCEP

Có một số khiếm khuyết đáng chú ý trong RCEP dẫn đến hạn chế lợi ích về mặt kinh tế lâu dài. Nhiều sản phẩm nông nghiệp và hàng hoá nhạy cảm về chính trị được loại trừ hoàn toàn khỏi việc cắt giảm thuế quan. Mức cắt giảm thuế quan là khoảng 90% hàng hoá, thấp hơn so với các hiệp định thương mại tự do “tiêu chuẩn vàng” như CPTPP, nơi có đến 99% hàng hoá sẽ được miễn thuế khi hiệp định được thực thi đầy đủ.

RCEP cũng không giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (SOEs), mà chính quyền Obama đã thêm vào TPP-12 với mục đích đưa ra cho Trung Quốc một loạt các cải cách SOE nếu quyết định tham gia TPP. RCEP cũng không cố gắng giải quyết các vấn đề về quyền lao động và môi trường, vốn là một phần quan trọng trong các hiệp định CPTPP, USMCA và TPP-12.

Các điều khoản về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước (ISDS) dường như đã bị loại bỏ theo yêu cầu của New Zealand, chính quyền hiện tại của quốc gia này kiên quyết phản đối ISDS. Thay vào đó, khi hiệp định có hiệu lực, các quốc gia thành viên sẽ đánh giá lại vấn đề ISDS trong vòng 2 năm. Những cam kết mà cần xem xét lại các vấn đề gây tranh cãi thường là những cam kết mà hiếm khi dẫn đến tiến bộ trong tương lai. Không như CPTPP và USMCA, hiệp định RCEP không bao gồm các điều khoản về quyền lao động hoặc tiêu chuẩn môi trường.

Cuối cùng, hiệp định không bao gồm Ấn Độ, quốc gia đã phá vỡ các cuộc thảo luận do lo ngại đến các ngành công nghiệp trong nước có thể bị ảnh hưởng bất lợi từ hàng hoá sản xuất giá rẻ hơn từ Trung Quốc; sữa và các sản phẩm từ sữa từ New Zealand và Úc. Dẫn đến Ấn Độ sẽ khởi động lại các cuộc đàm phán với các thành viên RCEP trong tương lai, nhưng với những căng thẳng gần đây với Trung Quốc và sự nhạy cảm chính trị lâu đời của Ấn Độ về việc giảm thuế công nghiệp và nông nghiệp, thì khó đạt được các thoả thuận trong thời gian gần và trung hạn.

Phần kết luận

Bất chấp những hạn chế của RCEP, hiệp định nay sẽ là một động lực quan trọng trong thương mại của khu vực với lần đầu tiên kết hợp Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc lại với nhau trong một FTA khu vực. Hơn nữa, hiện nay đã có hai hiệp định thương mại lớn ở châu Á mang trọng lượng chính trị và biểu tượng của hợp tác thương mại khu vực mà không thể bỏ qua, đặc biệt là vì Hoa Kỳ không là thành viên của chúng.

Mặc dù hiệp định RCEP còn hạn chế hơn nhiều so với CPTPP hoặc TPP-12, nhưng nó gây áp lực lên Hoa Kỳ trong việc tái gia nhập châu Á - Thái Bình Dương hoặc có nguy cơ bị lấn át bởi sự hiện diện khu vực ngày càng mở rộng của Trung Quốc. Điều này được thấy rõ thông qua tuyên bố gần đây của Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình tại Hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo trong Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) rằng Trung Quốc sẽ “xem xét một cách thuận lợi” việc tham gia CPTPP. Với việc Trung Quốc và Hàn Quốc đưa ra ý định cũng muốn tham gia CPTPP, Hoa Kỳ có thể cần phải nhanh chóng di chuyển để tránh tụt hậu xa hơn trong việc định hình các quy tắc thương mại châu Á tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Ở cấp độ thương mại thuần túy, mặc dù phạm vi áp dụng còn hạn chế, ưu đãi thuế quan và quy tắc xuất xứ của RCEP sẽ ưu đãi hàng hóa và dịch vụ từ các thành viên RCEP, khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn hàng trong khu vực và kết hợp RCEP và CPTPP có khả năng thay thế ít nhất một số đối thủ cạnh tranh về hàng hóa dịch vụ và xuất khẩu nông sản của Mỹ. Đồng thời, RCEP có khả năng tăng cường khả năng cạnh tranh của khu vực bằng cách giảm chi phí thuế và tạo thuận lợi thương mại cho hàng hóa với thành phần và linh kiện có nguồn gốc trong khu vực, ví dụ như từ Trung Quốc hoặc cho phép các công ty RCEP tránh thuế theo Mục 301 của Hoa Kỳ. “”Tác động từ hiệp định này sẽ được đánh giá một cách kỹ lưỡng theo từng thời kỳ trong bối cảnh việc cắt giảm thuế được tiến hành trên cơ sở khung thời gian nhất định, đồng thời cùng với thời gian mục đích thực sự của Trung Quốc và Ấn Độ liên quan đến RCEP và CPTPP cũng sẽ trở nên rõ ràng hơn trong những năm tới.

Chuyên mục RCEP

Menu

Thư viện hội nhập

thu vien

Video

Liên kết

 

Lượt truy cập

007391957
Go to top